Kè biển là gì? Các công bố khoa học về Kè biển
Kè biển là hạ tầng cơ sở bảo vệ bờ biển khỏi tác động của sóng và xói lở, đồng thời duy trì cân bằng sinh thái. Có các loại kè như kè cứng, kè mềm và kè tổng hợp, mỗi loại phù hợp với điều kiện môi trường riêng. Thiết kế và xây dựng kè biển cần phối hợp giữa các chuyên gia và qua nhiều bước như khảo sát địa hình, lập kế hoạch và giám sát xây dựng. Các thách thức như biến đổi khí hậu và triều cường đòi hỏi áp dụng công nghệ tiên tiến, kết hợp sinh thái và quản lý bền vững để bảo đảm an toàn cho con người và hệ sinh thái.
Kè Biển: Giới Thiệu và Vai Trò Quan Trọng
Kè biển là hạ tầng cơ sở được xây dựng nhằm bảo vệ bờ biển khỏi tác động của sóng biển, gió bão và các hiện tượng xói mòn do nước biển gây ra. Kè biển không chỉ đóng vai trò bảo vệ an toàn cho các khu dân cư, công trình gần bờ, mà còn góp phần ổn định môi trường, duy trì sự cân bằng của hệ sinh thái ven biển.
Các Loại Kè Biển
Kè biển có thể phân loại thành nhiều loại khác nhau dựa trên thiết kế, vật liệu và chức năng. Một số loại kè phổ biến bao gồm:
- Kè cứng: Đây là loại kè làm từ bê tông, đá hoặc vật liệu cứng khác, thường được xây dựng ở những nơi có sóng và dòng chảy mạnh.
- Kè mềm: Sử dụng vật liệu tự nhiên như cát, bãi bồi, thường được áp dụng ở những khu vực ít chịu ảnh hưởng của sóng lớn.
- Kè tổng hợp: Kết hợp giữa các vật liệu cứng và mềm nhằm tối ưu hóa khả năng bảo vệ và hòa nhập với môi trường tự nhiên.
Quá Trình Thiết Kế và Xây Dựng Kè Biển
Thiết kế và xây dựng kè biển đòi hỏi sự phối hợp giữa nhiều chuyên gia thuộc các lĩnh vực như kỹ thuật xây dựng, địa chất, và môi trường. Các bước chính trong quá trình này bao gồm:
- Khảo sát địa hình và khí hậu: Đánh giá địa chất, đặc điểm sóng, thuỷ triều và điều kiện khí hậu để lựa chọn thiết kế phù hợp.
- Lập kế hoạch chi tiết: Dự toán kinh phí, chọn lựa vật liệu và công nghệ xây dựng.
- Xây dựng và giám sát: Tiến hành thi công theo bản thiết kế, thường xuyên kiểm tra và điều chỉnh khi cần thiết.
Những Thách Thức và Giải Pháp
Kè biển đối mặt với nhiều thách thức bao gồm khí hậu biến đổi, sự gia tăng của bão tố và triều cường. Để ứng phó, các giải pháp sau thường được triển khai:
- Sử dụng công nghệ tiên tiến: Ứng dụng các vật liệu mới và công nghệ thi công tiên tiến nhằm nâng cao độ bền và hiệu quả của kè biển.
- Kết hợp phương pháp sinh thái: Xây dựng các bãi cỏ biển, rừng ngập mặn kết hợp với kè nhằm tăng cường khả năng chống xói mòn tự nhiên.
- Quản lý bền vững: Lập kế hoạch dài hạn, thường xuyên bảo dưỡng và nâng cấp hệ thống kè biển để thích ứng với biến đổi khí hậu.
Kết Luận
Với tầm quan trọng trong bảo vệ hệ thống ven biển và duy trì cân bằng sinh thái, kè biển trở thành một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển bền vững của các quốc gia có đường bờ biển dài. Việc đầu tư vào nghiên cứu, thiết kế và quản lý kè biển sẽ góp phần bảo đảm an toàn cho con người và hệ sinh thái trong bối cảnh khí hậu ngày càng biến đổi.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "kè biển":
Có một mối liên hệ sâu sắc và hữu ích giữa cơ học thống kê (hành vi của các hệ thống có nhiều mức độ tự do trong trạng thái cân bằng nhiệt ở một nhiệt độ xác định) và tối ưu hóa đa biến hoặc tổ hợp (tìm cực tiểu của một hàm số cho trước phụ thuộc vào nhiều tham số). Một sự tương đồng chi tiết với quá trình tôi kim loại cung cấp một khuôn khổ để tối ưu hóa các đặc tính của các hệ thống rất lớn và phức tạp. Mối liên hệ này với cơ học thống kê khám phá ra thông tin mới và cung cấp một góc nhìn lạ thường về các vấn đề và phương pháp tối ưu hóa truyền thống.
Để phân tích thành công mối quan hệ giữa trình tự axit amin và cấu trúc protein, một định nghĩa rõ ràng và có ý nghĩa vật lý về cấu trúc thứ cấp là điều cần thiết. Chúng tôi đã phát triển một bộ tiêu chí đơn giản và có động cơ vật lý cho cấu trúc thứ cấp, lập trình như một quá trình nhận dạng mẫu của các đặc điểm liên kết hydro và hình học trích xuất từ tọa độ x-quang. Cấu trúc thứ cấp hợp tác được nhận diện dưới dạng các thuật toán cơ bản của mẫu liên kết hydro "xoắn" và "cầu". Các xoắn lặp lại là "xoắn ốc", các cầu lặp lại là "cột", các cột kết nối là "tấm". Cấu trúc hình học được định nghĩa theo các khái niệm về độ xoắn và độ cong trong hình học vi phân. "Tính chiral" của chuỗi cục bộ là sự xoắn của bốn vị trí Cα liên tiếp và có giá trị dương đối với xoắn ốc thuận tay phải và âm đối với cấu trúc β- xoắn lý tưởng. Các phần cong được định nghĩa là "bền". "Phơi nhiễm" dung môi được tính bằng số phân tử nước có thể tiếp xúc với một dư lượng. Kết quả cuối cùng là sự biên soạn cấu trúc chính, bao gồm các liên kết disulfide, cấu trúc thứ cấp và phơi nhiễm dung môi của 62 protein hình cầu khác nhau. Bài trình bày ở dạng tuyến tính: biểu đồ dải cho cái nhìn tổng quát và bảng dải cho các chi tiết của mỗi 10.925 dư lượng. Từ điển cũng có sẵn ở dạng đọc được bằng máy tính cho công việc dự đoán cấu trúc protein.
Marketing quan hệ—thiết lập, phát triển và duy trì các trao đổi quan hệ thành công—được xem là một sự thay đổi lớn trong lý thuyết và thực hành marketing. Sau khi khái niệm hóa marketing quan hệ và thảo luận về mười hình thức của nó, các tác giả (1) lý thuyết hóa rằng marketing quan hệ thành công cần có cam kết quan hệ và sự tin tưởng, (2) mô hình hóa cam kết quan hệ và sự tin tưởng như là những biến trung gian chính, (3) kiểm tra mô hình biến trung gian chính này bằng cách sử dụng dữ liệu từ các nhà bán lẻ lốp ô tô, và (4) so sánh mô hình của họ với một mô hình đối kháng không cho phép cam kết quan hệ và sự tin tưởng hoạt động như những biến trung gian. Với kết quả kiểm tra tích cực cho mô hình biến trung gian chính, các gợi ý về việc làm rõ thêm và kiểm tra nó được đưa ra.
Bình thường hóa chính xác là điều kiện tiên quyết tuyệt đối để đo lường đúng biểu hiện gene. Đối với PCR sao chép ngược định lượng thời gian thực (RT-PCR), chiến lược bình thường hóa phổ biến nhất bao gồm tiêu chuẩn hóa một gene kiểm soát được biểu hiện liên tục. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đã trở nên rõ ràng rằng không có gene nào được biểu hiện liên tục ở tất cả các loại tế bào và dưới mọi điều kiện thí nghiệm, ngụ ý rằng sự ổn định biểu hiện của gene kiểm soát dự kiến phải được xác minh trước mỗi thí nghiệm. Chúng tôi đã trình bày một chiến lược mới, sáng tạo và mạnh mẽ để xác định các gene được biểu hiện ổn định trong một tập hợp các gene ứng cử viên để bình thường hóa. Chiến lược này bắt nguồn từ một mô hình toán học về biểu hiện gene cho phép ước lượng không chỉ sự biến đổi tổng thể của các gene nghị biểu bình thường mà còn sự biến đổi giữa các nhóm mẫu bộ của tập hợp mẫu. Đáng chú ý, chiến lược này cung cấp một thước đo trực tiếp cho sự biến đổi biểu hiện ước tính, cho phép người dùng đánh giá lỗi hệ thống được tạo ra khi sử dụng gene này. Trong một so sánh trực tiếp với một chiến lược đã được công bố trước đó, cách tiếp cận dựa trên mô hình của chúng tôi có hiệu suất mạnh mẽ hơn và ít nhạy cảm hơn đối với điều chỉnh đồng biến của các gene bình thường hóa ứng cử viên. Chúng tôi đã sử dụng chiến lược dựa trên mô hình để xác định các gene phù hợp để bình thường hóa dữ liệu RT-PCR định lượng từ ung thư ruột kết và ung thư bàng quang. Các gene này bao gồm UBC, GAPD, và TPT1 cho ruột kết và HSPCB, TEGT, và ATP5B cho bàng quang. Chiến lược được trình bày có thể được áp dụng để đánh giá độ thích hợp của bất kỳ ứng cử viên gene bình thường hóa trong bất kỳ loại thiết kế thí nghiệm nào và nên cho phép bình thường hóa dữ liệu RT-PCR đáng tin cậy hơn.
Đột biến soma trong miền tyrosine kinase (TK) của gen thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR) được cho là liên quan đến độ nhạy của ung thư phổi với gefitinib (Iressa), một chất ức chế kinase. Các đột biến xóa trùng khung xảy ra ở exon 19, trong khi các đột biến điểm xảy ra thường xuyên ở codon 858 (exon 21). Qua việc giải trình tự miền TK của
Tetracyclines được phát hiện vào những năm 1940 và cho thấy hoạt tính chống lại nhiều vi sinh vật bao gồm vi khuẩn gram dương và gram âm, chlamydiae, mycoplasma, rickettsiae và ký sinh trùng nguyên sinh. Đây là những loại kháng sinh ít tốn kém, đã được sử dụng rộng rãi trong dự phòng và điều trị nhiễm khuẩn ở người và động vật cũng như ở mức độ dưới điều trị trong thức ăn chăn nuôi để thúc đẩy tăng trưởng. Vi khuẩn kháng tetracycline đầu tiên, Shigella dysenteriae, được phân lập vào năm 1953. Kháng tetracycline hiện nay xuất hiện ngày càng nhiều trong các vi khuẩn gây bệnh, cơ hội và cộng sinh. Sự hiện diện của các tác nhân kháng tetracycline hạn chế việc sử dụng các chất này trong điều trị bệnh. Kháng tetracycline thường là do sự thu nhận gen mới, mã hóa cho sự bơm đẩy tetracycline phụ thuộc năng lượng hoặc cho một loại protein bảo vệ ribosome của vi khuẩn khỏi tác động của tetracycline. Nhiều trong số các gen này liên quan đến plasmid di động hoặc transposon và có thể được phân biệt với nhau bằng các phương pháp phân tử bao gồm lai ghép DNA-DNA với đầu dò oligonucleotide và giải trình tự DNA. Một số lượng ít vi khuẩn có được sự kháng bệnh thông qua đột biến, thay đổi tính thấm của porin màng ngoài và/hoặc lipopolysaccharides trong màng ngoài, thay đổi điều tiết của hệ thống bơm đẩy bẩm sinh, hoặc thay đổi 16S rRNA. Đang có các dẫn xuất mới của tetracycline được nghiên cứu, mặc dù vai trò của chúng trong điều trị chưa rõ ràng. Cần thay đổi việc sử dụng tetracycline trong sức khỏe con người và động vật cũng như trong sản xuất thực phẩm nếu chúng ta muốn tiếp tục sử dụng loại kháng khuẩn phổ rộng này trong thế kỷ hiện tại.
Nghiên cứu LUX-Lung 3 đã khảo sát hiệu quả của hóa trị so với afatinib, một chất ức chế có khả năng phong tỏa tín hiệu không hồi phục từ thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR/ErbB1), thụ thể 2 (HER2/ErbB2) và ErbB4. Afatinib cho thấy khả năng hoạt động rộng rãi đối với các đột biến EGFR. Nghiên cứu giai đoạn II về afatinib ở ung thư tuyến phổi với đột biến EGFR đã thể hiện tỷ lệ đáp ứng cao và sống không tiến triển (PFS).
Trong nghiên cứu giai đoạn III này, các bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn IIIB/IV đủ điều kiện đã được sàng lọc đột biến EGFR. Các bệnh nhân có đột biến được phân tầng theo loại đột biến (xóa exon 19, L858R, hoặc các dạng khác) và chủng tộc (người Châu Á hoặc không Châu Á) trước khi phân ngẫu nhiên theo tỷ lệ 2:1 để nhận 40 mg afatinib mỗi ngày hoặc tối đa sáu chu kỳ hóa trị bằng cisplatin và pemetrexed với liều chuẩn mỗi 21 ngày. Điểm cuối chính là PFS được đánh giá độc lập. Các điểm cuối phụ bao gồm phản ứng khối u, sống còn tổng thể, tác dụng phụ và kết quả do bệnh nhân báo cáo.
Tổng cộng 1269 bệnh nhân đã được sàng lọc và 345 người được phân ngẫu nhiên vào điều trị. Thời gian PFS trung bình là 11,1 tháng đối với afatinib và 6,9 tháng đối với hóa trị (tỷ lệ nguy cơ (HR), 0.58; 95% CI, 0.43 đến 0.78; P = .001). Trong những bệnh nhân có đột biến xóa exon 19 và L858R EGFR (n = 308), thời gian PFS trung bình là 13,6 tháng đối với afatinib và 6,9 tháng đối với hóa trị (HR, 0.47; 95% CI, 0.34 đến 0.65; P = .001). Các tác dụng phụ phổ biến nhất liên quan đến điều trị là tiêu chảy, phát ban/mụn trứng cá, và viêm miệng cho afatinib và buồn nôn, mệt mỏi, và chán ăn cho hóa trị. Kết quả do bệnh nhân báo cáo thiên về afatinib, với khả năng kiểm soát tốt hơn về ho, khó thở, và đau.
Afatinib liên quan đến việc kéo dài thời gian sống không tiến triển khi so sánh với hóa trị tiêu chuẩn kép ở bệnh nhân ung thư phổi tuyến di căn với đột biến EGFR.
Phương pháp PCR Ngược Dòng Thời gian Thực dựa trên huỳnh quang (RT-PCR) được sử dụng rộng rãi để định lượng mức mRNA ở trạng thái ổn định và là một công cụ quan trọng cho nghiên cứu cơ bản, y học phân tử và công nghệ sinh học. Các thử nghiệm dễ tiến hành, có khả năng xử lý khối lượng lớn, và có thể kết hợp độ nhạy cao với độ đặc hiệu đáng tin cậy. Công nghệ này đang tiến hóa nhanh chóng với sự xuất hiện của các enzym, hóa chất và thiết bị mới. Tuy nhiên, mặc dù RT-PCR thời gian thực đã giải quyết nhiều khó khăn vốn có trong RT-PCR thông thường, nó đã trở nên ngày càng rõ ràng rằng nó tạo ra những vấn đề mới cần giải quyết cấp thiết. Do đó, bên cạnh việc cung cấp bức tranh tổng thể về công nghệ RT-PCR thời gian thực, bài đánh giá này còn có mục tiêu bổ sung: sẽ mô tả và thảo luận cụ thể một số vấn đề liên quan đến việc giải thích các kết quả có tính chất số học và dễ dàng phân tích thống kê, nhưng độ chính xác của chúng bị ảnh hưởng đáng kể bởi sự biến đổi của hóa chất và người điều hành.
Hai loại metabolite của hormone steroid progesterone và deoxycorticosterone, 3α-hydroxy-5α-dihydroprogesterone và 3α,5α-tetrahydrodeoxycorticosterone, là những ligand kiểu barbiturate mạnh đối với phức hợp kênh ion chloride của receptor γ-aminobutyric acid (GABA). Ở nồng độ từ 10
-7
đến 10
-5
Sự xâm nhập của virus corona được điều hòa bởi glycoprotein chóp (S) của virus. Protein S oligomer 180-kDa của virus corona chuột, chủng virus viêm gan chuột A59, được cắt xuyên dịch mã thành đơn vị liên kết thụ thể S1 và đơn vị hợp nhất màng S2. Đơn vị S2 được cho là chứa một peptide hợp nhất nội bộ và có hai vùng lặp hydrophobic 4,3 (heptad) được chỉ định là HR1 và HR2. HR2 nằm gần phần neo màng, trong khi HR1 cách đó khoảng 170 axit amin (aa). Các vùng lặp heptad (HR) được tìm thấy trong các protein hợp nhất của nhiều virus khác nhau và hình thành một đặc điểm quan trọng của các protein hợp nhất virus loại I. Chúng tôi đã điều tra vai trò của các vùng này trong quá trình hợp nhất màng của virus corona. Các peptide HR1 (96 aa) và HR2 (39 aa), tương ứng với các vùng HR1 và HR2, đã được sản xuất trong
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10